Thứ Bảy, 21 tháng 5, 2011

Bàn về nụ cười trong văn học Thiền Việt Nam

http://www.giacngo.vn/vanhoc/2010/02/21/7B400A/

    Bàn về nụ cười trong văn học Thiền Việt Nam




    Giác Ngộ - Nụ cười là một hiện thực gắn liền với phần lớn sinh hoạt của con người.

    Ðối với đạo Phật là đạo của từ bi và giải thoát, nụ cười của đức Phật đã được xem là “Nụ cười từ bi muôn thuở”, và chúng ta nhớ đến kỳ quan “Ðế Thiên Ðế Thích”, mà một trong những nét đẹp trầm hùng của nó chính là “Nụ cười của đức Phật”: “Xe chạy vòng quanh đền Bayon, dưới nụ cười hiền từ của Phật Avalokitecvara rồi rẽ vào một đường hẹp ngập cát... Ở đây có năm mươi cái tháp, cái nào cũng cao trên mười thước. Có một trăm bảy mươi hai mặt người (tức bốn mươi ba đầu Phật, mỗi đầu có bốn mặt) lớn tới hai, ba thước, cái ở trên cao, cái ở dưới thấp, cái sáng một nửa, cái sáng một góc, cái sáng cả, cái tối cả, hướng về đủ bốn phương trời, và cái nào cũng có đôi mắt hiền từ, cũng có nụ cười khoan hòa, mỉa mai và bí mật...”. (Ðế Thiên Ðế Thích, Du Ký của Nguyễn Hiến Lê, nhà xb Thời Mới, S, 1968, trang 24, 41)

    ChuaTayPhuong.gif

    Ðó là dấu ấn của “Nụ cười đức Phật” nơi điêu khắc, kiến trúc. Bài viết nầy xin bước đầu bàn về Nụ cười trong văn học Thiền Việt Nam.

    Nụ cười được xem là đầu tiên trong Thiền học chính là nụ cười của Tôn giả Ma Ha Ca Diếp, tương truyền ở Hội Linh Sơn đối trước đóa hoa sen của đức Phật Thích Ca giơ lên giữa đại chúng.

    Sau này, vua Trần Thái Tông (1218 - 1277) gương mặt Thiền học xuất sắc bậc nhất của Phật giáo thời thịnh Trần, trong bốn mươi ba công án được ghi chép nơi sách Khóa Hư Lục, ta thấy công án ba, nhà vua đã nhắc lại sự kiện “Niêm hoa vi tiếu” kể trên:

      Cử:
    • Thế Tôn giơ cành hoa
      Ca Diếp nở môi cười nụ


    • Niệm:
    • Dương mày mở mắt mà trông
      Bước lên nghị nghị muôn trùng cách xa.


    • Tụng:
    • Ca Diếp sớm nay đạt tới nhà
      Ví bảo thế là truyền pháp yếu
      Bắc phương Di Việt lộ còn xa.

    • (Khóa Hư Lục, Nguyễn Ðăng Thục dịch, nhà xb Khuông Việt, S, 1972, trang 88 - 89)


    Thiền sư Chân Nguyên (1646 - 1726), người có công rất lớn trong nỗ lực phục hưng Thiền học Việt Nam cuối thế kỷ 17, nơi tác phẩm chữ Nôm “Yên Tử Sơn Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh” cũng mô tả lại “Nụ cười Thiền học” khởi đầu ấy:

      “Thuở xưa hội cả Kỳ Viên
      Bụt cầm một đóa hoa sen giơ bày
      Ca Diếp trí tuệ cao thay
      Liễu ngộ tự tánh bằng nay mỉm cười
      Trần trần sát sát Như Lai
      Chúng sanh mỗi người mỗi có hoa sen...”.

    (Dẫn theo Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận T2, nhà xb Văn Học, H, tr127)

     Nơi bài phú chữ Nôm “Thiền Tịch Phú”, nụ cười của Tôn giả Ca Diếp cũng được Thiền sư Chân Nguyên gợi lại:

                            “Tổ Ðạt Ma cửu niên diện bích
                            Thần Quang đoạn tý, lúc còn mê mặt khó đăm đăm
                            Ca Diếp nhãn đồng, thoát chốc ngộ miệng cười khềnh khệch”.

                                        (Dẫn theo Nguyễn Lang, Sđd, tr126)

    Ðó là nụ cười ngộ đạo.

    Thiền sử Trung Hoa còn ghi nhớ lại trường hợp ngộ đạo của Thiền sư Thủy Lạo trong lần đầu đến tham bái Mã Tổ (707 - 786) hỏi về ý nghĩa của việc Tổ sư Bồ Ðề Ðạt Ma qua Ðông Ðộ, được Mã Tổ tặng cho một đạp té nhào, lồm cồm bò dậy, chợt tỏ ngộ “chấp tay cười ha hả”. Sách “Ngữ Lục” của Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung (1230 - 1291), phần “Ðối cơ” đã nhắc lại sự kiện trên qua lời hỏi của một vị Tăng. Và Thượng Sĩ đáp:

    - Cái đạp đá của voi quý, chẳng phải sức lừa chịu nổi.

    - Lại hỏi: Sau đó, Thủy Lạo còn nói với học trò của mình rằng, từ lúc ăn phải cái đá của Mã Tổ đến nay, ông cười mãi không thôi. Thế lại là nghĩa gì?

    - Thực là tiếng gầm rống của loài sư tử. Phải đâu giọng kêu the thé của chó rừng.

    - Lại nói: Tôi không hiểu.

    - Sư bèn đọc kệ, chỉ cho:

                            "Một đạp lăn cù
                            Ai giảng tìm rõ
                            Ðứng dậy cả cười
                            Lại thêm buồn não
                            Rõ lẽ qua Tàu
                            Ngựa tơ ăn cỏ”.

     (Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục, Trúc Thiên dịch, Ðại học Vạn Hạnh xb, S, 1969, tr32 - 33)

    Ly tran 2.jpg

    Ðó cũng là nụ cười ngộ đạo.

    Từ nụ cười mang tính chất thể ấy, trong thơ Thiền Việt Nam, thỉnh thoảng chúng ta cũng gặp một số nụ cười với những tướng trạng khác nhau:

     Có thể là “nụ cười nhẹ” về tình quyến luyến của người đời đối với chuyện sanh tử:

                            “Thu về chẳng báo nhạn theo bay
                            Cười nhạt người đời uổng xót vay
                            Thôi hỡi môn đồ đừng quyến luyến
                            Thầy xưa mấy lượt hóa thầy nay!”

    (Bài Kệ thị tịch của Thiền sư Ðạo Hạnh, Ngô Tất Tố dịch. Dẫn theo Thiền uyển tập anh, bd, nhà xb Văn Học, 1990, tr203)

      Hoặc là “tự cười mình” vì sự bất lực của ngôn từ trong việc “truyền tâm”:

                            “Kham tiếu Thiền gia si độn khách
                            Vi hà tương ngữ dĩ truyền tâm”.
                            (Cửa Thiền những thẹn người si độn
                             Ðể lại câu gì nghĩ chửa thông)

         (Bài Kệ thị tịch của Thiền sư Tịnh Giới, Ngô Tất Tố dịch, Sđd, tr136 - 137)

    Cũng có thể là “nụ cười tự cười về mình” rất đáng trân trọng của Thiền sư Huyền Quang (1254 - 1334), không chỉ là vị Tăng Thống đang có trách nhiệm lớn đối với Giáo hội đương thời, mà còn là một nhà thơ yêu thiên nhiên, nghệ thuật:

                            “Củi hết, lò còn vương khói nhẹ
                            Sơn đồng hỏi nghĩa một chương kinh
                            Tay cầm dùi mõ, tay nâng sáo
                            Thiên hạ cười ta cứ mặc tình”.

                                        (Nguyễn Lang dịch, VNPGSL T1, S, 1974, tr370)

     Trong văn học đời Trần hay nói chung là cả mảng văn học chữ Hán của văn học Việt Nam, Thiền sư Huyền Quang thật đã xứng danh là “Nhà thơ của hoa cúc”. Sáu bài Thất ngôn tứ tuyệt của ông viết về hoa cúc không chỉ có giá trị về nghệ thuật thi ca mà còn bao hàm những giá trị lớn về Thiền học. Ðây là nụ cười của nhà thơ - Thiền sư “Với tất cả lòng từ bi khi nhìn thấy một thiếu nữ vì không thấy rõ được bản chất mầu nhiệm của hoa cúc, đã hái hoa cắm đầy đầu trước khi ra về”:

                            “Cười kẻ không hay hoa huyền diệu
                            Khi về mái tóc giắt đầy hoa”.

                                        (Nguyễn Lang dịch, Sđd, tr374)

     Hàm ý của nụ cười mang tính chất nhân bản ấy cũng có sức khơi gợi lớn của một công án Thiền học.

    Nơi hai câu cuối của bài thơ Ðường luật thất ngôn bát cú “Ðưa nhà sư Ðạo Khiêm về núi”, Nguyễn Trãi (1380 - 1442) viết:

                “Lão khứ cuồng ngôn hưu quái ngã
                Lâm kỳ ngã diệc thượng thừa Thiền”.
                (Lẩm cẩm già rồi, đừng lạ tớ
                Chia đường, tớ cũng sẽ theo Thiền!)

                            (Ðào Duy Anh dịch, Nguyễn Trãi toàn tập, 1976, tr353 - 354)     \

    Sư Ðạo Khiêm vốn là bạn thân của Nguyễn Trãi, sau mười năm xa cách gặp lại nhau, cùng ngủ một đêm với nhau để tâm sự, và khi chia tay, Nguyễn Trãi đã tự hứa với mình như thế. Nụ cười mỉm của Ức Trai rõ ràng đã mang một ý nghĩa tự khám phá.

     Chúng ta cũng sẽ nhận thấy tính chất tự khám phá tương tợ nơi nhà thơ Cao Huy Diệu thời Tây Sơn. Trong bài thơ “Lên thăm chùa Tiên Sơn lần trước”, ông kết luận:

                “Thế giới dưới chân cờ nửa cuộc
                Cười ai bể trọc chửa nhìn ra”.
                (Cước hạ giang sơn kỳ bán cục
                Thao thao lãnh tiến trọc đồ mê).

                 (Ngô Linh Ngọc dịch, Văn học Tây Sơn của Nguyễn Lộc, 1986, tr382 - 383)

    Trong cửa Thiền còn có một nụ cười rất đáng chú ý là nụ cười của Phật Di Lặc. Di Lặc là vị Bồ tát có mặt nơi phần lớn các kinh điển của Phật giáo Bắc truyền, và được đức Phật Thích Ca Mâu Ni thọ ký là sẽ thành Phật vào đời vị lai với đạo tràng là Hội Long Hoa. Thời Ngũ Ðại (907 - 960) của lịch sử Trung Quốc, như Thiền sử đã ghi lại, có một vị Thiền sư hiệu là Hòa thượng Bố Ðại, cuộc đời và hành trạng rất kỳ lạ, về sau, nhờ bài Kệ thị tịch mới biết đây là hiện thân của Phật Di Lặc. Do vậy, các tượng thờ Phật Di Lặc ở Trung Hoa và Việt Nam đều được tạc theo hình ảnh của vị Hòa thượng kia: bụng phệ, người phốp pháp, nụ cười rạng rỡ, với sáu đứa trẻ tượng trưng cho “sáu giặc” đã được Ngài hàng phục.

    nuccuoi 2.jpg

     Nhà thơ Ðào Tấn (1845 - 1907) hầu như rất tâm đắc với nụ cười của Phật Di Lặc. Ông đã có hai bài Thất ngôn tứ tuyệt viết về nụ cười ấy.

                Bài thứ nhất nhan đề: “Hứng viết trong đêm thăm điện Di Lặc”:

                “Di Lặc nguyên lai bản Ðại Hùng
                Lãn tàn cao cứ Phạm vương cung
                Cổ kim quân độc an bài đắc?
                Thương hải phù vân nhất tiếu không”.
                
    (Di Lặc cũng là bậc Ðại Hùng
                An nhiên ngồi ngự Phạm vương cung
                Xưa nay muôn việc, ông sắp đặt
                Biển dâu, mây nổi, cười như không”.

          (Thơ và từ Ðào Tấn, nhà xb Văn Học, 1987, tr215. Phần dịch thơ là của chúng tôi)

    Bài thứ hai mang tên “Phật ở mình” (Tự Phật) phản ánh chỗ thấu đạt về Thiền học của ông Ðào:

                “Hòa nam khấu thỉnh Di Lặc Phật
                Phúc trung hứa đại tàng hà vật?
                Tiếu vân trung hữu nhất đoàn băng
                Chỉ thị không không vô xứ ngật”.
                
    (Ðảnh lễ thưa cùng Phật Di Lặc
                Bụng chứa những gì con muốn biết
                Cười rằng: Tâm trung vốn như như
                Thảy là không không, vượt sinh diệt).

                                        (Sđd, tr217. Phần dịch thơ là của chúng tôi)

    Từ nụ cười của Tôn giả Ma Ha Ca Diếp, đến nụ cười của Thiền sư Bố Ðại, Phật giáo đã có trên 1500 năm truyền bá, gắn bó với đời, và từ đó đến nay sự gắn bó ấy vẫn phát triển liên tục.

    Xét về khía cạnh triết lý, chỉ với nụ cười của Phật Di Lặc - qua sự diễn tả rất tâm đắc của Ðào Tấn: “Biển dâu, mây nổi, cười như không” - cũng đã góp cho đời bao nhiêu là giá trị về nhân sinh rồi.

    Ðào Nguyên

11 nhận xét:

  1. "...đôi mắt hiền từ, cũng có nụ cười khoan hòa, mỉa mai..."
    Đã HIỂN TỪ,KHOAN HÒA...thì chắc là Đức Phật không có nụ cười MỈA MAI !!!???

    Trả lờiXóa
  2. Chỉ có : "Nụ cười của sự an lạc, của lòng từ bi và trí tuệ vô ngại. " thôi anh CPS ạ.

    Trả lờiXóa
  3. Nụ cười MỈA MAI chỉ có trong chúng ta, những con người cứ chìm nổi trong u minh, trong bể hận tham sân si đầy rẫy những chướng ngại..mà hình thành.

    Trả lờiXóa
  4. cười duyên, cười chia sẻ, cười đểu, cười nhạo.. ôi kg ít nụ cười.
    bà già bi giờ cười gì thế? hehhee

    "Nụ cười của sự an lạc, của lòng từ bi và trí tuệ vô ngại. " - chắc khó tim trong xã hội, chỉ còn tu-thiền thôi, em nghĩ vậy.

    Trả lờiXóa
  5. Bà già đang cười "mếu" hihi...
    "Nụ cười là tiếng khóc khô không lệ ".. mà nhỏ ơi!

    Trả lờiXóa
  6. Em cũng đang nghĩ đến nụ cười của một người, rất mong được thấy, vì từ lâu người ấy đã không cười.
    Để thấy rằng tâm người ấy đang an lạc. Rất mong, chị ạ.

    Trả lờiXóa
  7. Bà già cười lại đi em xem nào, cười điệu từ bi nha ! :)

    Trả lờiXóa
  8. hihi ... dễ thương vậy mà. :)

    Trả lờiXóa
  9. Vậy mà em nhìn vào cặp mắt đi, nhìn buồn tênh em nhỉ?

    Trả lờiXóa

Bạn từ đâu đến..



Bạn từ đâu đến bạn ơi!
Đến thì nhớ nhé đôi lời thăm nhau..

free counters


Pageviews: 374,323 - 23/09/2016

Sắc tím Đài Đông

Sắc tím Đài Đông

Sương khói




Suy tư vầng trán thêm gầy
Em ơi! khói thuốc vàng tay vẫn buồn..





Và mây vẫn trôi giữa dòng đời.......
................ bụi bặm...
..... Người đi qua đời.. chợt.. ...
............cũ đến chẳng còn quen.......
................. TTM